Các pháp hỗ trợ cho việc giữ gìn giới luật giúp thân tâm thanh tịnh, nền tảng cho sự hành thiền...
|
Nam Mô Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật |
Người cư sĩ cần phải tu tập năm pháp lành (kalyānadhamma), là pháp hỗ trợ cho sự giữ giới tốt đẹp (atthakathā):
1) Từ bi (mettākaruṇā), tính hài hoà vô sân, có lòng trắc ẩn trước đau khổ của chúng sanh mọi loài. Khi người cư sĩ tu tập đức tính này thì sẽ không nỡ hại chúng sanh, không nỡ đoạt mạng sống các sinh vật. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ nhất (tránh sự sát sanh).
2) Chánh mạng (sammā-ājiva), có sự tinh tấn trong việc nuôi mạng, quyết không nuôi mạng bằng nghiệp bất thiện. Khi người cư sĩ vui sống chánh mạng sẽ không nghĩ đến gian tham trộm cướp tài sản của kẻ khác. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ hai (tránh sự trộm cắp).
3) Phòng hộ dục trần (kāmasaṃvara). Kềm giữ tâm không đam mê sắc dục, luôn thấy được sự nguy hiểm của ngũ trần. Khi người cư sĩ có sự thu thúc như vậy sẽ không khởi lên tà ý với vợ con người khác. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ ba (tránh sự tà dâm).
4) Chân thật (sacca). Tính ngay thẳng trung thực, ưa thích sự thật, không thích dối trá. Khi người cư sĩ vui trong pháp chân thật sẽ khó chịu nếu nói dối. Đây là pháp hỗ trợ giới thứ tư (tránh sự nói dối).
5) Chánh niệm tỉnh giác (satisampajañña). Sống kiểm soát và nhận thức, ghi nhớ và suy niệm. Khi người cư sĩ quen sống chánh niệm tỉnh giác sẽ không có sự dể duôi quên mình. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ năm (tránh uống rượu).
Ngoài năm pháp hỗ trợ cho giới đã nói trên, người cư sĩ trong ngày trì bát quan trai giới còn phải thực hành bốn pháp hỗ trợ thanh tịnh giới (trai giới):
1- Thu thúc các căn (indriyasaṃvāra). Người cư sĩ trong ngày trai giới sau khi phát nguyện thọ bát quan trai, trọn ngày và đêm ấy phải giữ chánh niệm khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngữi, lưỡi nếm, thân xúc, ý suy nghĩ, không để tham sân sanh khởi do thấy, nghe v.v...
2- Tu tập quán tưởng (paccavekkhana). Ngày trai giới, người cư sĩ nên dành nhiều thời gian yên tịnh để tu tập quán tưởng, như tưởng thể trược, tưởng thân già bệnh, chết, tưởng vô thường, tưởng khổ não, tưởng vô ngã.
3- Tu tập tùy niệm (anussati). Nếu có thời gian để tu thiền trong ngày trai giới, người cư sĩ có thể tu tập cận định với sáu tùy niệm là niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên.
4- Tu tập tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna). Nếu người cư sĩ có duyên lành với thiền quán thì ngày trai giới tu tập tứ niệm xứ, càng cao thượng hơn, tức là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.
Những pháp tu tập về đề tài quán tưởng, hay tùy niệm, hay thiền quán này, người cư sĩ phải học hỏi trước từ nơi chư Tăng hay vị sư truyền trai giới hôm đó, để thực hành cho tốt đẹp và hỗ trợ ngày trai giới thanh tịnh và thành tựu phước báu viên mãn.
Nam Mô Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật