Tín Tâm Minh là bài minh luận về lòng tin. Tác giả là Tăng Xán (… - 606), tổ thứ ba của Thiền Trung Hoa, đời nhà Tùy. Minh là bài răm, chép lại hoặc khắc in để ghi nhớ, và ở đây là bài tự thuật lại kinh nghiệm của bản thân mình. Tín Tâm là lòng tin. Nhưng ở đây không phải là lòng tin thường, thường gọi là tín ngưỡng. Thiệt vậy, đem chữ “tín” ghép vào chữ “tâm”, người xưa đã phá hết giới hạn của lòng tin mà trực tiếp nhắm ngay vào trung tâm điểm của sanh hoạt đạo giáo. Nhứt là từ ngày bồ tát Mã Minh viết bộ sách “Đại Thừa khởi tín luận” (luận về sự phát khởi lòng tin theo giáo lý Đại Thừa) thì chữ “tín” mang thêm một màu sắc siêu hình và tuyệt đối của phép nội quán, và có thể coi như là đồng nghĩa với “ngộ”. Và “ngộ” ấy chẳng phải cái gì khác hơn là “khởi tín”.
“Khởi tín là ý thức cái giác tánh bổn lai của mình. Khởi tín là trở về chính mình, trở về tự thể của chính mình” (Suzuki)
Vậy, Tăng Xán viết Tín Tâm Minh cũng như Huyền Giác viết Chứng Đạo Ca, đều mô tả lại sự tâm chứng của hai ngài về Thực tại tối thượng của đạo giáo. Thực tại ấy là gì? Không ai có thể nghĩ gì được về Thực tại ấy vì một lẽ rất dễ hiểu là Thực tại ấy là kết quả của một sự tu chứng chớ không phải của một ý nghĩ. Vì không có ý nghĩ nên Thực tại ấy siêu việt tất cả giới hạn của ý nghĩ, nói đúng hơn, tất cả mâu thuẫn (thiện ác, nghịch thuận, phàm thánh, phiền não Niết-bàn...) do ý nghĩ tạo ra. Nói thế không có nghĩa giác ngộ là phá bỏ tất cả cặp mâu thuẫn để siêu lên ở trạng thái thứ ba nào đó. Không, không hề có trạng thái thứ ba dựng mới lên, mà cũng không hề có việc nắm lấy cũng như bỏ đi. Không có gì để “xả” mà cũng không có gì phải “thủ”. Trái lại, tất cả mâu thuẫn đều hòa đồng trong nhau, đều “viên dung vô ngại”.
Viên dung nghĩa là trắng tức là đen, đen tức là trắng.
Vô ngại nghĩa là “đen vẫn là đen mà trắng vẫn là trắng”.
Nói một cách khác, một vật đồng thời vừa là chính nó vừa chẳng phải là chính nó. Đó là luận lý Bát Nhã. Đó là đại bí mật của đạo giáo và của cuộc sống.
Cho nên trong cuộc sống, người ngộ đạo không phá thế gian để chứng Niết-bàn, không lìa sanh tử luân hồi mà vẫn thoát ly sanh tử luân hồi, không xả tục mà xuất trần. Đó là tất cả tinh thần nhơn bản của đạo Phật.
TÍN TÂM MINH
TĂNG XÁN - TRÚC THIÊN dịch
(đăng trong tạp chí Từ Quang, số 194-195, tháng 10 & 11 năm 1968)Chí đạo vô nan duy hiểm giản trạch đản mạc tắng ái đỗng nhiên minh bạch | Đạo lớn chẳng gì khó cốt đừng chọn lựa thôi quí hồ không thương ghét thì tự nhiên sáng ngời |
Hào li hữu sai thiên địa huyền cách dục đắc hiện tiền mạc tồn thuận nghịch | Sai lạc nửa đường tơ đất trời liền phân cách chớ nghĩ chuyện ngược xuôi thì hiện liền trước mắt |
Vi thuận tương tranh thị vi tâm bịnh bất thức huyền chỉ đồ lao niệm tịnh | Đem thuận nghịch chỏi nhau đó chính là tâm bịnh chẳng nắm được mối huyền hoài công lo niệm tịnh |
Viên đồng thái hư vô khiếm vô dư lương do thủ xả sở dĩ bất như | Tròn đầy tợ thái hư không thiếu cũng không dư bởi mảng lo giữ nó nên chẳng được như như |
Mạc trục hữu duyên vật trụ không nhẫn nhứt chủng bình hoài dẫn nhiên tự tận | Ngoài chớ đuổi duyên trần trong đừng ghì không nhẫn cứ một mực bình tâm thì tự nhiên dứt tận |
Chỉ động qui chỉ chỉ cánh di động duy trệ lưỡng biên ninh tri nhứt chủng | Ngăn động mà cầu tịnh hết ngăn lại động thêm càng trệ ở hai bên thà rõ đâu là mối |
Nhứt chủng bất thông lưỡng xứ thất công khiển hữu một hữu tòng không bối không | Đầu mối chẳng rõ thông hai đầu luống uổng công đuổi có liền mất có theo không lại phụ không |
Đa ngôn đa lự chuyển bất tương ưng tuyệt ngôn tuyệt lự vô xứ bất thông | Nói nhiều thêm lo quẩn loanh quanh mãi chẳng xong dứt lời dứt lo quẩn đâu đâu chẳng suốt thông |
Qui căn đắc chỉ tùy chiếu thất tông tu du phản chiếu thắng khước tiền không | Trở về nguồn nắm mối dõi theo ngọn mất tông phút giây soi ngược lại trước mắt vượt cảnh không |
Tiền không chuyển biến giai do vọng kiến bất dụng cầu chơn duy tu tức kiến | Cảnh không trò thiên diễn thảy đều do vọng kiến cứ gì phải cầu chơn chỉ cần dứt sở kiến |
Nhị kiến bất trụ thận vật truy tầm tài hữu thị phi phân nhiên thất tâm | Hai bên đừng ghé mắt cẩn thận chớ đuổi tầm phải trái vừa vướng mắc là nghiền đốt mất tâm |
Nhị do nhứt hữu nhứt diệc mạc thủ nhứt tâm bất sanh vạn pháp vô cữu | Hai do một mà có một rồi cũng buông bỏ một tâm ví chẳng sanh muôn pháp tội gì đó |
Vô cữu vô pháp bất sanh bất tâm năng tùy cảnh diệt cảnh trục năng trầm | Không tội thì không pháp chẳng sanh thì chẳng tâm tâm theo cảnh mà bặt cảnh theo tâm mà chìm |
Cảnh do năng cảnh năng do cảnh năng dục tri lưỡng đoạn nguyên thị nhứt không | Tâm là tâm của cảnh cảnh là cảnh của tâm ví biết hai đằng dứt rốt cùng chỉ một không |
Nhứt không đồng lưỡng tề hàm vạn tượng bất kiến tinh thô ninh hữu thiên đảng | Một không, hai mà một bao gồm hết muôn sai chẳng thấy trong thấy đục lấy gì mà lệch sai |
Đại đạo thể khoan vô dị vô nan tiểu kiến hồ nghi chuyển cấp chuyển trì | Đạo lớn thể khoan dung không dễ mà chẳng khó kẻ tiểu kiến lừng khừng gấp theo và chậm bỏ |
Chấp chi thất độ tâm nhập tà lộ phóng chi tự nhiên thể vô khứ trụ | Chấp giữ là nghiêng lệch dấn tâm vào nẻo tà cứ tự nhiên buông hết bổn thể chẳng lại qua |
Nhiệm tánh hiệp đạo tiêu dao tuyệt não hệ niệm quai chơn trầm hồn bất hảo | Thuận tánh là hiệp đạo tiêu dao dứt phiền não càng nghĩ càng trói thêm lẽ đạo chìm mê ảo |
Bấ thảo lao thần hà dụng sơ thân dục thú nhứt thặng vật ố lục trần | Mê ảo nhọc tinh thần tính gì việc sơ thân muốn thẳng đường nhứt thặng đừng chán ghét sáu trần |
Lục trần bất ác hoàn đồng chánh giác trí giả vô vi ngu nhơn tự phược | Sáu trần có xấu chi vẫn chung về giác đấy bậc trí giữ vô vi người ngu tự buộc lấy |
Pháp vô dị pháp vọng tự ái trước tương tâm dụng tâm khởi phi đại thác | Pháp pháp chẳng khác do ái trước sanh lầm há chẳng là quấy lắm sai tâm đi bắt tâm |
Mê sanh tịch loạn ngộ vô hiếu ố nhứt thiết nhị biên vọng tự châm chước | Mê sanh động sanh yên ngộ hết thương hết ghét nhứt thiết việc hai bên đều do vọng châm chước |
Mộng huyền không hoa hà lao bả tróc đắc thất thị phi nhứt thời phóng khước | Mơ mộng hão không hoa khéo nhọc lòng đuổi bắt chuyện thua được thị phi một lần buông bỏ quách |
Nhãn nhược bất thụy chư mộng tự trừ tâm nhược bất dị vạn pháp nhứt như | Mắt ví không mê ngủ mộng mộng đều tự trừ tâm tâm ví chẳng khác thì muôn pháp nhứt như |
Nhứt như thể huyền ngột nhĩ vọng duyên vạn pháp tề quán qui phục tự nhiên | Nhứt như vốn thể huyền bằn bặt không mảy duyên cần quán chung như vậy muôn pháp về tự nhiên |
Dẫn kì sở dĩ bất khả phương tỉ chỉ động vô động động chỉ vô chỉ | Đừng hỏi vì sao cả thì hết chuyện sai ngoa ngăn động chưa là tịnh động ngăn khác tịnh xa |
Lưỡng kí bất thành nhứt hà hữu nhĩ Cứu cánh cùng cực bất tồn quĩ tắc | Cái hai đà chẳng được cái một lấy chi mà... Rốt ráo đến cùng cực chẳng còn mảy qui tắc |
Khế tâm bình đẳng sở tác câu tức hồ nghi tận tịnh chánh tín điều trực | Bình đẳng hiệp đạo tâm im bặt niềm tạo tác niềm nghi hoặc lắng dứt lòng tin hòa lẽ trực |
Nhứt thiết bất lưu vô khả kí ức hư minh tự nhiên bất lao tâm lực | Mảy bụi cũng chẳng lưu lấy gì mà kí ức bổn thể vốn hư minh tự nhiên nào nhọc sức |
Phi tư lượng xứ thức tình nan trắc chơn như pháp giới vô tha vô tự | Trí nào suy lượng được thức nào cân nhắc ra cảnh chơn như pháp giới không người cũng không ta |
Yếu cấp tương ưng duy ngôn bất nhị bất nhị giai đồng vô bất bao dong | Cần nhứt hãy tương ưng cùng lẽ đạo bất nhị bất nhị mà hoà đồng không gì chẳng bao dong |
Thập phương trí giả giai nhập thử tông Tông phi xúc diên nhứt niệm vạn niên | Mười phương hàng trí giả chung về nhập một tông Tông này vốn tự tại khoảnh khắc là vạn niên |
Vô tại bất tại thập phương mục tiền Cực tiểu đồng loại vong tuyệt cảnh giới | dầu có không không có mười phương trước mắt liền Cực nhỏ là cực lớn đồng nhau, bặt cảnh duyên |
Cực đại đồng tiểu bất kiến biên biểu Hữu tức thị vô vô tức thị hữu | Cực lớn là cực nhỏ đồng nhau, chẳng giới biên Cái có là cái không cái không là cái có |
Nhược bất như thị tất bất tu thủ Nhứt tức nhứt thiết nhứt thiếc tức nhứt | Ví chửa được vậy chăng quyết đừng nên nấn ná Một tức là tất cả tất cả tức là một |
Đản năng như thị hà lự bất tất Tín tâm bất nhị bất nhị Tín Tâm | Quí hồ được vậy thôi lo gì chẳng xong tất Tín Tâm chẳng phải hai chẳng phải hai Tâm Tín |
Ngôn ngữ đạo đoạn phi cổ lai trâm. | Lời nói làm đạo dứt chẳng kim cổ vị lai. |
TĂNG XÁN | TRÚC THIÊN dịch |
Thánh Tri Phỏng Việt Dịch Lời Nghĩa - Đạo cùng tột thì không có gì khó, chỉ sợ còn tình thức phân biệt mà thôi
- Nếu đừng có tâm yêu ghét, thì Tâm này tự nhiên thông suốt minh bạch
- Hễ còn mảy may tình thức phân biệt, thì cũng như đất trời xa cách nhau vậy
- Nếu muốn Tánh Giác hiện tiền, thì chớ còn tâm thuận nghịch
- Nếu chấp hai bên thuận nghịch, thì đó là tâm bệnh
- Nếu chẳng biết cái Tâm Yếu Sâu Xa, thì uổng công tịnh niệm
- Tâm này tròn đầy như hư không, không thiếu không dư
- Do còn có thủ xã, nên không được NHƯ NHƯ
- Đừng chạy theo cái Có, cũng chớ trụ cái Không
- Trọn một Tâm bình đẳng, thì mọi tình chấp Có Không đều tự dứt sạch
- Ngưng động về tịnh, thì tịnh càng thêm động
- Cứ chấp hai bên động tịnh, thì đâu biết rằng chúng vốn là một thứ
- Nếu một thứ chẳng thông, thì chạy theo hai đầu là uổng công phí sức
- Muốn trừ cái Có lại bị kẹt nơi Có, còn chạy theo Không thì trái với Không
- Nói nhiều lo nhiều, loanh quanh mãi thì càng chẳng tương ưng với Đạo
- Nếu dứt hết nói năng bặt hết lo nghĩ, thì chỗ nào chẳng thông?
- Trở về cội gốc thì được Ý Chỉ, đuổi theo chiếu soi lại mất bản Tông
- Nếu soi chiếu ngược lại, thì hơn hẳng cảnh Không trước mặt
- Thấy cảnh không trước mặt theo duyên đổi thay, đều là do vọng thấy
- Chẳng cần cầu chơn, chỉ cần dứt hết sở kiến hai đầu thì toàn thể tức chơn
- Chẳng trụ chơn chẳng trụ vọng, cẩn thận chớ đuổi theo tìm
- Vừa có phải quấy lăng xăng, thì lạc mất bản Tâm
- Hai do một mà có, một cũng đừng nên giữ
- Nếu một tâm chẳng sanh, thì muôn pháp không có lỗi
- Không có lỗi thì không có pháp, pháp chẳng sanh thì tâm ấy tự tịch
- Tâm năng niệm theo cảnh sở niệm mà diệt, cảnh cũng theo tâm mà mất
- Cảnh do tâm năng niệm mà thành cảnh, tâm do cảnh sở niệm mà thành tâm
- Nên biết hai bên tâm cảnh, vốn là một cái Không
- Một cái Không này đồng với hai tâm cảnh kia, đều bao hàm vạn tượng
- Nếu không còn thấy có đẹp xấu, thì đâu có thiên lệch bên nào?
- Bản thể của Đạo lớn rộng khắp, nên chẳng có sự khó dễ tương đối
- Người mê thấy biết nhỏ hẹp nên sinh tâm nghi ngờ, muốn gấp thì lại càng trễ
- Hễ chấp thì lạc phương hướng, tâm sẽ rời vào đường tà
- Tâm chấp đã buông thì tự nhiên vắng lặng, bởi bản thể vốn không có đi ở.
- Thuận theo Tánh hợp với Đạo, thì an nhàn tự tại không còn phiền não
- Buộc niệm thì trái chơn, hôn trầm thì chẳng tốt
- Nếu không tốt xấu thì chẳng nhọc tinh thần, nên đâu cần trừ bỏ hai bên
- Muốn hướng tới Đạo Nhất Thừa, thì chớ có chán ghét lục trần
- Lục trần chẳng ghét, thì cùng về với Chánh Giác
- Người trí thì vô vi tự tại, kẻ ngu do chấp trước nên tự trói buộc mình
- Các pháp vốn không đồng dị, do tự vọng sanh ái chấp mà thành ra khác biệt
- Do vậy đem tâm dụng tâm, há chẳng phải là lầm lớn đó sao?
- Mê thì sanh tâm chấp trước nơi động tịnh, còn Ngộ thì chẳng có tốt xấu
- Tất cả hai bên đối đãi, đều do tự vọng sanh những suy lường nghĩ tưởng
- Việc mộng huyễn như hoa đốm trên không, thì đâu cần lao nhọc nắm bắt
- Được mất phải trái, phải cùng một lúc buông bỏ hết
- Ví như mắt nếu không ngủ, thì mộng tự dứt
- Tâm nếu chẳng cho là có khác, thì muôn pháp đều Nhất Như
- Cái Nhất Như này thể tánh huyền diệu, cùng tột thì chẳng có các duyên
- Vạn pháp cùng quán, thì tất cả trở về tự nhiên
- Nó bặt hết mọi lý giải, chẳng thể thí dụ được.
- Ngưng động chẳng cho là tịnh, động ngưng cũng chẳng cho là ngưng
- Hai đã chẳng thành, thì một làm sao có?
- Chỗ cứu cánh cùng tột, thì chẳng còn tuân theo một khuông phép nào cả
- Khế hợp với bản Tâm thì tất cả bình đẳng, năng tác sở tác đều dứt sạch
- Mọi cái nghi nơi Tâm đều sạch hết, thì lòng chánh tín được vững ngay
- Tất cả chẳng lưu giữ nơi tâm, thì không thể ghi nhớ
- Tâm rỗng rang tự chiếu soi, thì chẳng nhọc tâm lực
- Chỗ lìa suy nghĩ, thì thức tình khó mà suy lường được
- Trong Chơn Như Pháp Giới, chẳng lập mình chẳng lập người
- Nếu muốn mau tương ưng, chỉ nói Bất Nhị
- Chỗ bất nhị đều đồng, thì không có cái gì mà nó không bao dung
- Người trí trong mười phương, đều vào Tông này
- Tông không có dài ngắn, vì một niệm là muôn năm (muôn năm là một niệm)
- Không có chỗ nào mà không hiện, mười phương ở ngay trước mắt
- Bởi cái cực nhỏ đồng với cái cực lớn, nên quên hết mọi cảnh giới
- Vì cái cực lớn đồng với cái cực nhỏ, nên chẳng thấy có bờ mé
- Có tức là không, không tức là có
- Nếu chẳng như thế, ắt không nên giữ
- Một là tất cả, tất cả là một
- Nếu được như thế, lo gì chẳng xong?
- Tin tự Tâm là bất nhị, tin bất nhị là tự Tâm
- Đường ngôn ngữ dứt, chẳng phải là quá khứ, hiện tại, vị lai
Thánh Tri Phỏng Việt Dịch Lời Nghĩa (Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010)
|