Kể cho quý bạn nghe những kinh nghiệm trong những ngày đầu tu tập rồi, bây giờ tôi xin chia xẻ vài kinh nghiệm mới đây hơn, khi vai trò đã đảo ngược và tôi đã trở thành một vị thầy. Chia xẻ những câu chuyện này, điều quan trọng đối với tôi không phải là cho đạo Phật được hưng thịnh hay Thiền tông được phổ biến toàn thế giới này, mà nhiều hơn là cho mỗi người trong chúng ta có thể sống cuộc đời này một cách toàn vẹn, trong một ý nghĩa chân thật nhất, cho đến ngày nhắm mắt lìa đời, trong sự mãn nguyện và an bình nơi tâm. Chính trong niềm hi vọng này mà tôi đã đi thuyết giảng.
Một thanh niên trẻ có họ với tôi, còn trong lứa tuổi đôi mươi, một hôm đã đến thăm tôi với một điều thắc mắc. Làm việc trong một hãng mậu dịch, anh thường có cơ hội tiếp đónkhách hàng từ các nước khác, và qua những câu chuyện trao đổi thân mật, những người khách này thường hỏi về tôn giáo của anh. Anh bảo khi trả lời họ là anh không có tôn giáogì cả, những vị khách ấy có vẻ phản ứng một cách ngờ vực.
“Có vẻ như những người ngoại quốc ấy xem tôn giáo là rất quan trọng,” anh nhận xét, “trong khi những người Nhật chúng ta lại chẳng biết gì cả. Thật sự là những người trẻ tuổi như chúng con đây chỉ tiếp xúc với tôn giáo qua những tang lễ, ngoài ra con không cảm thấy nó cần thiết gì cả. Thầy nghĩ sao, với cảm nghĩ như vậy đó, tôn giáo có còn là quan trọng không?”
Điều anh ta hỏi cơ bản là như thế này: tôn giáo là về cái gì đây?
Trong tiếng Nhật, chữ tôn giáo gồm có hai nghĩa “chính” (hay là “gốc”) và “dạy dỗ”. Vì vậy, tôi nói với anh ta, “tôn giáo là ở ngay gốc của cái mà chúng ta gọi là đời sống. Ta có thể nói rằng có vô số những điều dạy chúng ta trong đời và tôn giáo là cái chính thống và cơ bản nhất trong những điều dạy này.”
Khi anh chàng trẻ tuổi này nghe giải thích như vậy, anh nói,” Như vậy có nghĩa là tôn giáo là một cách căn bản nhất để nghĩ về cuộc đời, phải không? Nói cách khác, mình có thể diễn dịch nó như là một “nhân sinh quan” được không?”
Tôi nói với anh rằng có thể nói như vậy, nhưng tôi cũng hỏi anh về nhân sinh quan của anh như thế nào.
“À, con nghĩ rằng mục đích cuộc đời con người là xây dựng một cái gì đó bằng nỗ lực của chính mình,” anh trả lời.
Đó cũng là một quan điểm về cuộc đời. Trước đây, chính tôi cũng đã từng có lúc nghĩ như vậy. Trong những ngày còn son trẻ, tôi đã tin tưởng rằng làm con người tức là có khả năng lấy được hay thụ đắc được điều gì đó.
Có những người có thể chạy đua đến hơn bốn mươi cây số. Người ta biết rằng nếu luyện tập thân thể thì sẽ có được sức mạnh thể lực; sự phát triển thể lực có thể được thực hiệntrong một hạn tuổi nào đó . Bằng sự học tập, bạn có thể học được bất cứ cái gì bạn muốn. Bạn có thể tích lũy những kinh nghiệm của mình. Nếu đủ nỗ lực, bạn có thể có thêm nhiều bạn bè, kiếm được người yêu. Bạn có thể lập gia đình, tạo mãi tài sản, xây nhà để ở. Trong cuộc đời, có một thời kỳø bạn cảm thấy thế giới như ở trong tay bạn, một thời kỳ trong đó quan điểm hay mục đích của cuộc đời là “xây dựng một điều gì đó qua nỗ lực của chính mình” có thể thích hợp.
Thế rồi sau đó, khi bạn già đi, bạn cần phải có kính đeo mắt để đọc sách, tai bạn bắt đầu ù đi, răng lung lay dần. Khi một đứa bé ở tuổi mẫu giáo mất một cái răng, nó sẽ có một cái răng khác tốt hơn nữa mọc ra, nhưng khi một người lớn mất răng, thì cái răng đó sẽ mất mãi mãi! Tử thần sẽ đến, cướp đi những người bạn thân thiết nhất của bạn. Những đứa con mà bạn đã hi sinh nhường cơm xẻ áo sẽ ra đi rời tổ ấm của gia đình. Rồi tuổi về hưu xế chiều đến, công việc mà bạn đã từng bỏ bao nhiêu công sức vào đó cũng phải bỏ đi. Bạn bắt đầu quên đi những điều bạn tưởng đã học được. Bạn sẽ mất đi những bắp thịt rắn chắc mà bạn đã cố công xây đắp, và chúng cũng ra đi không bao giờ trở lại. Dù cho một người có nhìn cuộc đời như thế nào chăng nữa, họ cũng sẽ cảm thấy thật thấm thía rằng cuộc đời con người không phải là một điều gì có thể thêm vào, mà chỉ là mất đi.
“Khi thời kỳ đó đến, quan điểm về cuộc đời ấy của anh có còn giúp gì được anh không?” Tôi hỏi người bà con trẻ tuổi của tôi.
Anh chàng trông có vẻ hơi ngượng ngịu khi cúi đầu xuống, thú nhận rằng có lẽ anh đã hơi tự kiêu quá, và có lẽ cũng nên ít nhất tìm hiểu xem tôn giáo nói cái gì. Anh còn xin tôi hướng dẫn cho anh nữa.
Tất cả mọi người chúng ta đều hay dựng nên những quan điểm của riêng mình tùy theo tuổi tác và hoàn cảnh đến trong đời sống, từ đó có những lối sống biến đổi và phức tạp khác nhau. Tôn giáo, tuy vậy, không phải là một nhân sinh quan có giá trị chỉ trong một thời giannào đó. Đó là một giáo pháp luôn luôn dùng được trong mọi thời, luôn luôn đúng thực, không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh.
Mọi hiện tượng trên thế gian này đều thường xuyên thay đổi; tất cả đều trải qua một thời đểø trưởng dưỡng (thành), một thời để bảo trì (trụ), và rồi trở về với hư không … sinh, lão, bệnh, và tử. Không một cố gắng nào có thể làm cho bạn tránh được diễn biến của sự lão hóa. Không một nỗ lực nào có thể làm cho bạn tránh khỏi cái chết. Những gì tích lũy được rồi sẽ mất đi, những gì có sinh rồi sẽ có diệt, những gì được xây dựng lên rồi cũng sẽ bị tiêu hủy. Một quan điểm về bản chất của cuộc đời là một quan điểm giúp chúng ta vượt quađược những đau khổ khi chúng ta phải đối mặt với chúng.
Tôi tin tưởng tự đáy lòng, rằng cái mà chúng ta gọi là tôn giáo chính là điều quan trọng nhất cho con người. Tôi không thể nhấn mạnh đủ, rằng mục tiêu tối thượng của tôn giáo, dù chúng ta gọi đó là giác ngộ hay là tâm bình an, vẫn là làm sao cho mỗi người được sống trong sự an bình, được sống một đời đầy đủ và toại nguyện.
Hàng năm tôi đều đi Hokkaido để thuyết giảng, và sau một buổi nói chuyện trong một cuộc họp UNESCO ở Sapporo, ông chủ tịch đến tìm tôi nhận xét rằng: “Chúng tôi hân hạnhđược nghe thầy diễn thuyết một bài rất dài và hữu ích, nhưng tôi già rồi, không thể nào nhớ hết một bài dài như thế được. Hơn nữa, tôi cũng đã là một Phật tử rồi; mỗi buổi sáng trước khi đi làm và mỗi buổi tối khi về nhà tôi cũng đều thắp hương bàn thờ và tụng một bài kinh.”
“Vấn đề là, tôi bị bắt buộc phải giải thể, từng cái một, số lớn những công ty tôi đang quản lý, và điều này làm cho tôi bị xáo trộn rất nhiều. Thế thì, Lão sư,” ông nói thẳng thừng, “Tôi không muốn nghe diễn thuyết dài dòng. Tôi muốn thầy nói cho tôi, chỉ trong một chữ, làm sao tôi có thể an được cái tâm đang xáo trộn của tôi.”
Những vị cao niên đôi khi thật khó tính, phải không bạn? Tôi đã bỏ công diễn thuyết thật trọn vẹn vấn đề đó, bây giờ ông lại muốn chỉ tóm lại trong một chữ thôi!
Tôi trả lời bằng cách hỏi ông khi thắp hương và tụng kinh trước bàn thờ ông cầu nguyệncho ai.
“Thì, dĩ nhiên là, nhờ tổ tiên mà tôi mới có mặt ở đây,” ông trả lời. “Nên tôi thắp nén hương để tỏ lòng biết ơn tổ tiên và Phật tổ.”
“Trong trường hợp đó”, tôi bảo ông, “bắt đầu từ đêm nay, hãy thắp hai nén hương. Một nén để tỏ lòng tri ân tổ tiên, như ông vẫn thường làm. Một nén kia để thắp cho cái xác của ông.”
Chúng ta thường xem sự sống của mình là một điều đương nhiên, và như thếù hay bị lầm lạc khi hoàn cảnh có những vấn đề, và bị mê mờ không phán đoán được cho đúng thực. Nhưng mặt khác, khi nhìn vào cái chết của một người khác, chúng ta lại rất bén nhậy với sự mong manh của mọi sự trên đời này.
Nếu cùng với những suy tưởng đó mà chúng ta nhìn vào xác thân của mình, có lẽ chúng tasẽ không còn muốn để cho mình bị lôi cuốn trong những dây mơ rễ má của các vấn đề. Chúng ta có thể tự giải thoát mình và quyết định hành động đúng vào căn bản của những vấn đề, vào gốc rễ của chúng. Đó là điều tôi ám chỉ khi tôi bảo vị cao niên ấy ngày đêm thắp một nén hương cho xác của chính mình.
Sau khi chấm dứt một bài giảng, tôi thường yêu cầu mọi người hãy quên đi tất cả những gì tôi đã nói. Đó là bởi vì chúng ta hay có khuynh hướng thu thập những bài giảng chỉ như những tài liệu, mang chúng về nhà, rồi đem những trích dẫn từ đó ra làm nguyên liệu để chỉ trích những môi trường chung quanh chúng ta. Điều trở thành cái nhân của sự tranh cãi không phải là trí tuệ; nó không khác gì mầm mống gieo trồng cho sự than phiền và bất mãn. Có nhiều trường hợp, chúng ta càng cảm thấy mình biết nhiều một vấn đề, càng cảm thấybất mãn và bực bội hơn.
Những kiến thức thu lượm được trong vấn đề tôn giáo là không có giá trị gì cả. Tôn giáo, nói cho tới cùng, là một điều phải tự kiểm chứng lấy qua sự thực hành.
Có nhiều người sẵn sàng muốn theo học những kỹ thuật giúp cho họ sống trong cuộc đời. Nhưng người muốn tìm cách xác định gốc rễ đời sống của họ và vượt lên khỏi những kỹ thuật để đi vào cái căn bản -- tới tôn giáo đích thực -- là cực kỳ hiếm hoi. Hiện trạng đó tôi thấy thật đáng tiếc vô cùng. Vì lẽ đó tôi không thể nào không thúc dục bạn đừng đánh giácuộc sống hàng ngày của mình trên căn bản những điều bạn tưởng là đã biết, trên căn bảnnhững tài liệu thu thập được. Tôi muốn bạn thức tỉnh thấy Phật tính trong vạn pháp và đi tìm một lối sống chân chính. Nhưng đừng có rơi vào sai lầm: bạn có thể trở thành một hạng người bất mãn hay thành một vị Phật giác ngộ, điều đó hoàn toàn tùy thuộc nơi bạn, hoàn toàn tuỳ thuộc vào những hành động thực tế của chính bạn.
Thượng đế ở ngay đây
Mùa hè, tôi thường đi qua Anh Quốc diễn thuyết trong khóa tu học mùa hè do Hội Phật Giáo ở đó bảo trợ. Sau những buổi nói chuyện, những bà mẹ trẻ ôm con trong tay đôi khi đến tìm tôi với nhiều câu hỏi. Gần như lúc nào họ cũng hỏi tôi làm sao dậy con cái của họ biết về Phật pháp. (Thật bất hạnh là, trong bao nhiêu năm làm tư vấn cho vô số người ở tại Nhật Bản này, chưa bao giờ có ai hỏi tôi câu này cả.)
Những phụ nữ này, họ là những thành viên của một xã hội được gán cho tính cách cá nhân chủ nghĩa, đã biết từ trong xương tủy rằng tự do chân chính có nghĩa là không nương tựa vào người khác. Người ta thường hay xem tự do như là có thể làm mọi việc theo ý mình, nhưng những người xuất thân từ những quốc gia có một truyền thống cấp tiến thường có ý thức thật bén nhậy rằng cái cốt yếu của tự do là không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Vì hiểu tự do trong nghĩa đó, họ lấy một tuần lễ nghỉ phép để dấn thân vào một lối sống mới lạ, tự kỷ luật mình qua những buổi tọa thiền đau đớn thân xác và lắng nghe thuyết pháp trong sự chân thành nhất mực. Đồng thời, họ cũng cầu nguyện rằng Phật pháp nhiệm mầu mà họ đã cảm nhận sâu xa đó có thể truyền lại cho con cái họ, giúp chúng có được một đời sống đáng quý.
Một người mẹ trẻ đã có lần đến với tôi với câu chuyện về bé gái năm tuổi con bà. Một buổi sáng khi bà và chồng đang uống trà nơi hiên nhà, con gái bà chơi ngoài vườn với một người bạn. Hình như là bạn em quay qua em và nói rằng, “Ông tao mới mất . Bây giờ ông đang lên ở với Thượng đế trên Thiên đàng.”
Trong khi cha mẹ em nghe mà không chú ý gì lắm, họ bỗng nghe thấy đứa con gái năm tuổi của họ bất đồng ý với bạn. “Không, không,” Em nói một cách tin tưởng. “Nếu ông mày mất và đi lên Thượng đế, thì ông không ở Thiên đàng đâu. Thượng đế là ở ngay đây này, ở trong mày và tao, ở trong cái hoa này nữa đó. Vì thế nên, ông mày chẳng đi đâu hết.” Đứa bé gái khăng khăng nói, “Mẹ tao tọa thiền nên biết hết mấy cái đó mà.”
Tôi nói với người mẹ trẻ rằng đây thật là một câu chuyện tuyệt vời.
Khi cha mẹ khuyên răn con không được phung phí, đứa trẻ có thể phản ứng bằng cách gọi cha mẹ là keo kiệt và nêu lên rằng bất cứ cái gì rồi cũng có thể mua thêm được . Ít có cha mẹ nào có thể đặt ra luật lệ và kiên trì sửa sai con mình hoài được. Đến khi lớn, tất nhiên là, sẽ có những lúc đứa trẻ buông mình trong tình trạng chán nản tuyệt vọng. Những đứa trẻ được cha mẹ nuông chiều thường hay mạnh miệng nói trả treo là, “Đó là việc của con! Cha mẹ không phải là con; cha mẹ không hiểu con gì cả. Để cho con yên có được không! Con có muốn sinh ra đời đâu.” Người cha hay mẹ bị con mình mắng lại như thế không còn có thể nói gì được nữa.
So sánh tình trạng của bậc phụ huynh đó với tình trạng của bà,” tôi nói với người mẹ Anh Quốc. “Con bà biết được Thượng đế ở ngay nơi nó và nơi tất cả mọi vật. Nhờ nó biết như vậy, khi con bà có phí phạm cái gì, bà có thể hỏi nó là làm như thế nó không thấy là đã hơi xử tệ với Thượng đế trong đó hay sao. Nhắc nhở như vậy, cô bé sẽ tự thấy được sự sai lầm trong hành động của mình.”
Khi cô bé cảm thấy thất vọng, bà có thể hỏi em là nếu em không đối xử tử tế với mình liệu có làm cho Phật ở trong em buồn không, và rồi cho em về phòng suy nghĩ điều này một mình. Chỉ cần nhắc nhở điều em đã biết rồi, như vậy chắc đứa trẻ sẽ có thể tự mình đứng dậy được chứ? Nếu giáo dục em trong đường lối như vậy sẽ rất dễ dàng.”
Cặp vợ chồng này chỉ có cơ hội hỏi những câu hỏi và được sự hướng dẫn của tôi một lầnmột năm, trong thời gian một tuần, nhưng họ thường thảo luận với nhau về những kinh nghiệm của đôi bên, hàng ngày một, 365 ngày trong năm. Bởi vì đó là một phần của câu chuyện nói hàng ngày của họ, em bé năm tuổi con họ có thể nói một cách vững chắc rằng Thượng đế là ở trong tôi, và trong bạn tôi nữa; Thượng đế cũng ở trong cả hoa lá, đá sỏi và tất cả mọi thứ.
Những lời nói này thấm vào trong tôi thật tự nhiên như nước thấm qua đất cát vậy.
Cái chết có bí hiểm không? Tuy tôn giáo là về những điều không liên hệ gì đến sự chết, nhưng ở đây, để rộng đường thảo luận, chúng ta hãy lui mười bước và coi như là không phải vậy, thật ra là sự chết có một ảnh hưởng chủ yếu trên tôn giáo. Có cách nào để chúng ta nghĩ đến sự sống mà không nghĩ đến sự chết không? Xã hội của chúng ta có khuynh hướng rất thiên về tuổi trẻ, và khi chúng ta già đi, chúng ta thường hay nhìn cuộc đời như đang trên đà xuống dốc từ một ngọn đồi cao, như một sự phế thải cô đơn của một đời người.
Nhưng vấn đề không chỉ là như vậy. Có thể nào chúng ta thực sự sống trọn vẹn được mà không biết nhìn kỹ vào sự chết không? Tôi không tin điều đó có thể được. Nếu không nhìn thẳng vào sự chết, như là mặt trái của sự sống, chúng ta không thể nào sống trọn vẹn và đầy đủ được. Tôi hoàn toàn tin chắc như vậy.
Nhìn sự chết như là cách biệt và xa vời với sự sống, chúng ta không hay ưa thích cái chết. Khi nghĩ rằng họ sẽ mất hết tất cả những gì họ đã tích lũy được, những người đã nỗ lựcthật nhiều trong cuộc đời sẽ đặc biệt thù ghét cái chết và họ còn không muốn nhắc đến vấn đề đó nữa. Ngoài ra, nếu có ai nghĩ về sự chết thì cũng đều có một ý nghĩ như nhau là cái chết là một điều ï không thể hiểu được. Lý luận của họ là không thể biết đến cái chết được vì người ta không thể kinh nghiệm nó trong khi còn sống, và không có ai chết rồi mà lại trở về để có thể kể cho chúng ta nghe được. Tuy rằng có những người đã trở về sau khi trải qua cái chết giả, nhưng không một ai chết thật đã trở về sau đó vài năm để mà kể cho chúng ta nghe về thế giới bên kia. Một vài người nói rằng, nghĩ về sự chết là chỉ có phí thời giờ.
Chấp trước trong thái độ đó, chúng ta sẵn sàng đơn giản hóa ý nghĩa của câu nói Khổng Tử là: “Chúng ta chưa biết gì về sự sống, làm sao chúng ta biết về sự chết được?” Chúng ta cho rằng có thể tập trung sống một cuộc sống trọn vẹn mà không cần phải nhìn kỹ đến cái chết. Do đó chúng ta thường hạ thấp tầm quan trọng của sự chết để mà không cần nghĩ đến nó.
Nhưng thực sự chết có phải là điều gì chúng ta không thể biết đến không?
Có một điều chúng ta chắc chắn sẽ gập phải trong đời sống hàng ngày của chúng ta, đó chính là sự chết. Người ta chết khắp nơi nơi. Hơn thế nữa, còn có những cái chết của các gia súc như chó, mèo, chim chóc nuôi trong nhà. Còn cây cối bạn mua ở vườn cây đem về trong chậu nữa, chúng cũng khô héo và chết đó thôi? Còn những đóa hoa tươi nghệ thuật được mua ở tiệm về, chúng cũng tàn tạ dần trong những kiểu trưng bầy của chúng đó thôi? Rồi cái tách đặc biệt mà bạn dùng đến hàng ngày và giữ gìn cẩn thận đó, một ngày nào nó vuột khỏi tay bạn và rơi xuống đất vỡ tan tành. Cái “chết” luôn luôn ở đó, với ý nghĩa của sự biệt ly.
Nếu sự chết chiếm một phần đáng kể như vậy trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, làm sao chúng ta không biết đến nó được? Tại sao chúng ta cứ nhất quyết cho rằng không thể nào biết đến sự chết được khi cái chết vẫn hiện hữu thường nhật nơi cuộc đời chúng ta? Làm sao chúng ta có thể bác bỏ vấn đề này một cách lơ là như vậy được?
Cái nguyên nhân gốc của sự bác bỏ sự chết của chúng ta là, theo từ ngữ Phật pháp, cái quan điểm đối đãi của năng và sở -- của cái ta và cái ngoài ta -- ”Đó là người ta, còn đây là tôi.” Chúng ta thường hay lãnh đạm với những gì thấy có vẻ như không trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống của mình trong hiện tại … “Điều ấy thì liên quan gì đến tôi?”
Tuy rằng sự chết tràn lan ở chung quanh chúng ta, chúng ta thường xem đó như là cái chết của một cái gì hay một người nào khác chúng ta. Nhưng làm sao để biện minh cho điều đó được?
Sự phân biệt rõ ràng giữa chúng ta và người khác có nói lên được thực chất trong tình trạng của chúng ta không? Giữa những người chúng ta, có phải là không có gì trung giannối kết chúng ta với nhau không?
Tâm như thủy
Bất cứ khi nào đi diễn thuyết ở ngoại quốc, tôi cũng đều đi với một thông dịch viên. Có một dịp, trước một buổi nói chuyện ở Anh Quốc, người thông dịch này nói với tôi rằng: “Lão sư, thầy thường hay dùng chữ chúng ta ngay cả khi thầy nói về chính mình. Nhưng trong một xã hội cá nhân chủ nghĩa như ở nước Anh này, nếu con dịch nguyên văn chữ chúng ta ấy, thầy sẽ mất đi một chút hấp lực đối với họ. Vì vậy, ngay cả khi thầy nói chúng ta, mà con biết chắc rằng thầy có ý nói là tôi, con sẽ muốn dùng chữ tôi để thông dịch. Mong thầy thông cảm cho phép con được làm như vậy.”
Tôi lấy làm lạ khi nghe như vậy. Nghĩ lại, tôi nhận ra rằng người Nhật, ở trong một nhóm, khi nói chuyện có dùng từ chúng ta thật mơ hồ, và như thế áp đặt mọi người vào với nhaumà không hề có sự đồng ý trước của những cá nhân liên hệ. Và khi làm như vậy là đã trốn tránh được trách nhiệm cho cá nhân. Tuy nhiên, khi đào sâu hơn vào vấn đề, tôi không thấy được đó là một điều sai lầm khi dùng chữ chúng tôi.
Bạn có thể giả dụ là có nhiều thực thể riêng biệt gọi là tôi đã đến với nhau họp thành một nhóm gọi là chúng ta. Nhưng đây không hẳn là thực chất của vấn đề.
Hãy suy ngẫm như thế này: giả sử như có một người đang ở trong tâm trạng rất chân thựcvà an tịnh, không có một lo nghĩ nào, tinh thần thật là sáng suốt và lành mạnh. (khi tâm đang quằn quại và bế tắc thì đó lại là chuyện khác). Giả sử như người ấy là một bà nội trợ đang ở trong bếp một buổi tối, và bà nghe tiếng chân quen thuộc của ông chồng đang về đến nhà. Vội vã lau tay vào cái yếm mặc ngoài, bà đi ra cửa đón chồng. Trong giây phút đó người này -- với bộ mặt của người vợ, tiếng nói của người vợ, thân hình và cử chỉ của người vợ -- là một người vợ đang đi ra đón chồng.
Thế rồi, đúng lúc bà đang đưa tay ra lấy áo khoác của chồng, một giọng nói vang ra từ đàng sau, “Mẹ!” Bà quay lại trả lời, “Gì đó con?” Ngay lúc đó người này không còn mang bộ mặt của người vợ nữa, mà là bộ mặt của người mẹ. Bà quay lại với bộ mặt của người mẹ, tiếng nói của người mẹ, cử chỉ của người mẹ. Thế rồi, một người bạn láng giềng đến gọi cửa, bà tiếp đón khách không phải với bộ mặt của người vợ hay người mẹ, mà với bộ mặt của một người bạn hàng xóm.
Có thể khi bạn đọc những điều này, bạn sẽ tưởng tượng hình dáng bề ngoài tôi như một vị thầy tăng. Nhưng sáng mai tôi sẽ đi viếng mộ của cha mẹ tôi. Đứng trước mộ, tôi chỉ là một đứa trẻ không hơn không kém. Đối trước với cha mẹ mình là một đứa trẻ, đối trước với con mình là một bậc phụ huynh, đối trước chồng mình là một người vợ, đối trước vợ mình là một người chồng. Ơû nơi làm việc, bộ mặt và bề ngoài người ta khoác lên là tùy thuộcvào địa vị có trong sở. Đó là thực chấtø bề ngoài của chúng ta.
Không có thực thể nào gọi là “Tôi” di chuyển từ điểm này sang điểm khác, lúc này qua lúc khác. Mà đúng hơn là, qua những lúc gập gỡ chuyên biệt nào đó với những người chuyên biệt nào đó, trong mỗi lần gập gỡ, trong mỗi sự giao tiếp, cái gọi là “Tôi” sẽ xuất hiện. Như vậy ta thấy dường như một cái gì ở ngoài con người chúng ta, thật ra, lại bổ túc cho chúng ta, làm cho mỗi giây phút trong cuộc đời thêm phần rực rỡ.
Nếu bạn hiểu được điều này, bạn sẽ hiểu tại sao Thiền tông dùng sự tu tập để đạt đượcgiác ngộ bằng cách quán chiếu thật thâm sâu vào tâm của mình. Nếu cái tâm đó là của riêng bạn, dù bạn có không ngừng soi chiếu vào nó thật miên mật, bạn cũng không thể ngộ được cái chân lý chung nhất của vạn pháp. Nhưng tâm bạn không phải là một vật sở hữucá nhân, nó không phải chỉ là của riêng bạn thôi.
Tâm bạn, sự sống trong bạn, được sanh ra trong sự liên đới với môi trường. Tâm bạn là đời sống của vũ trụ rộng lớn vĩ đại này. Chính tâm của chúng ta là cái nôi từ đó khởi đầu mọi sự, và như tôi là một biểu hiện của tánh Phật, bạn cũng là một biểu hiện của tánh Phật. Vì thế, Thiền tông dậy rằng chúng ta không nên cố gắng để biết “hết mọi sự”, mà chúng taphải tìm hiểu những gì gần nhất với mình, đó là thân và tâm của mình. Vì thế mà chỉ cần nhìn sâu vào cái tâm bé nhỏ của bạn, bạn cũng có thể mẫn cảm với tâm của người khác … không những thế còn có thể ngộ được chân lý của toàn thể vũ trụ vô biên này nữa!
Chúng ta không hiện hữu như những thỏi nước đá, di chuyển một cách cứng nhắc từ nơi này sang nơi khác. Mà chúng ta như giòng nước chẩy tự do, lúc vào một cái hộp bốn góc, lúc ở trong một cái hộp ba góc, mỗi lúc mỗi sinh ra lại và đổi mới. Tôi tin rằng, đó là một sự thực trong sự hiện hữu của chúng ta, và sự tồn tại như thế của con người, sự tồn tại như thế của vạn pháp trong vũ trụ này, là điều mà Đức Phật tuyên dương.
Xét như vậy, chúng ta không phải là những cá thể những cái “Tôi” tập hợp lại để làm thành “chúng ta”, nhưng trong sự hiện diện của “chúng ta”, có một thứ gọi là “Tôi” đã khởi lên. Tôi tin rằng, đây cũng là một sự thực.
Khi chúng ta hòa đồng với thể nguyên thủy của mình, chúng ta sẽ có thể thông cảm được sự chết, sự đau đớn, buồn khổ, hạnh phúc của người khác như của chính mình.
***
Mạng sống Phật
Tôi đã thấy nhiều người áp dụng tu, nhưng tôi không biết có ai thực hành theo những lời chỉ dậy của tôi một cách thật hoàn hảo, thật tuyệt vời như cô Okamoto. Cô tuân theo lời tôi thật ngoan ngoãn như một con cừu non. Chưa đầy mười ngày, bộ mặt nghiêm khắc của cô đã dịu đi trông như một đứa trẻ, trở thành bộ mặt của một bà lão hiền từ. Cô đã bỏ lại đàng sau cái lối sống khắc khổ, gò bó để cố làm điều tốt.
Bệnh của cô Okamoto càng ngày càng nặng thêm, và cuối cùng cô phải vào nhà thương. Tôi nhớ khi tôi đến thăm cô, các bác sĩ và y tá đều nhận xét rằng họ đã làm việc trong bệnh viện bao nhiêu năm nay, mà chưa gặp một bệnh nhân nào như vậy. Khi cô Okamoto vào bệnh viện, cô đón nhận tất cả mọi người, tất cả mọi thứ, tất cả mọi hoàn cảnh đến trong tinh thần “cơ hội chỉ đến một lần”.
Hầu hết mọi người đều diễn giải “cơ hội chỉ đến một lần” như là những trường hợp thật là đặc biệt, một cơ hội hãn hữu cả đời chỉ có một lần. Câu nói đó gợi lên trong trí ta một dịp gì như là một buổi lễ trà đạo chỉ được diễn ra một lần độc nhất. Người ta thường lý luận rằng cái gì chỉ xẩy ra một lần trong đời, một cuộc tao ngộ có một không hai trong đời, phải là một dịp may hiếm có lạ thường, và câu nói này thường chỉ được dùng giới hạn trong nghĩa đó mà thôi.
Tuy nhiên, theo một nghĩa đích thực, “cơ hội chỉ đến một lần” có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, khi người ta gặp một tảng đá, nhìn thấy một cây cỏ dại, khi lau chùi phòng tắm hay nấu cơm. Đó là một trạng thái tâm thức trong đó tuyệt đối không có một dự kiến nào mang tính chất yêu ghét, trong đó tuyệt đối không có một ý tưởng nào muốn trốn tránh hiện thực. Thực tập “cơ hội chỉ đến một lần” là hoàn toàn hòa nhập vào mỗi việc đang xẩy đến, và đó đúng là cách mà cô Okamoto đã dùng để đi ra khỏi cuộc đời.
Không may là, tôi đã đồng ý trước cho chuyến du hành sang Anh và Hoa Kỳ trong thời điểm đó, và tôi ra đi trong lòng cảm thấy khó chịu. Tôi chỉ thị cho các đệ tử ở nhà phải săn sóc cô Okamoto trong lúc tôi đi vắng, nhưng cô đã qua đời mà không chờ đợi tôi trở về. Khi trở về, tôi nghe người đệ tử lớn nhất của tôi, vị tăng đã trông nom cô lúc sau cùng, kể lại những giây phút cuối của cô trước khi chết. Tuy vị tăng này ít khi nào biểu lộ cảm xúctrên nét mặt, ông cũng không ngăn nổi những giòng lệ tuôn trào khi kể lại câu chuyện.
Trước khi cô Okamoto qua đời, cô đã nói với ông, “Nhìn lại, tôi thấy cuộc đời tôi đã sống bao nhiêu năm nay thật là tù túng. Nên bây giờ tôi có ý muốn cầm một quả bóng đi vào chơi trong rừng.” Đó là những lời cuối của cô.
Chúng tôi đã đặt một quả bóng thật đẹp, làm bằng những sợi chỉ mầu, vào bên trong mộ của cô.
Tôi mong bạn sẽ không xem những lời nói cuối cùng của cô Okamoto chỉ như những lời nóixúc cảm hay chỉ có ý nghĩa thuần túy như vậy . Khi tôi nghe những lời nói cuối cùng đó, tôi cảm thấy vui mừng tự trong đáy lòng. Vui mừng, vì tôi tin tưởng rằng trong đời sống và trong cái chết, cô Okamoto đã thực sự đạt tới trạng thái có thể được gọi là “du hí tam muội.”
Nếu một người được lãnh lương để làm công việc dùng xẻng xúc cát vào trong thùng xe vận tải, chắc họ sẽ cảm thấy mỏi mệt. Lúc đó nếu có ai đến và đề nghị giúp họ, chắc họ sẽ vui vẻ mà đưa cái xẻng ra cho người ấy. Nhưng giả tỷ có một đứa trẻ đang chơi trên một đống cát, xúc cát vào trong cái xô. Nếu có người nào đến nói với nó cho họ làm thế việc đó một lúc, chắc đứa trẻ sẽ cự lại rằng, “Tại sao tôi lại muốn ông thế tôi trong khi tôi đang thích thú như thế này?”
Ngay cả một trong những công việc phù du nhất như việc sửa soạn một bữa ăn cũng có thể là du hí tam muội được. Bạn dốc tâm vào việc sửa soạn một bữa ăn ngon, lo bầy biện trang hoàng những đĩa thức ăn thật nghệ thuật rồi đem lên mời mọi người dùng, chẳng mấy chốc những món ăn đó sẽ được tiêu thụ hết sạch, và còn lại chỉ là những đĩa bát bẩn. Thực hành du hí tam muội không chỉ có ý nghĩa sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật làm đẹp cho viện bảo tàng trong vài trăm năm, mà còn áp dụng cho những việc tầm thường hàng ngày mà chúng ta vẫn làm. Một tỷ dụ cụ thể là những công việc làm trong nhà. Trong một vòng vô tận, chúng ta lau chùi nhà cửa, rồi nhà cửa lại bẩn trở lại. Chúng ta quét nhà, rồi bụi lại bám trở lại. Chúng ta giặt quần áo, rồi quần áo lại bị lấm bẩn trở lại.
Điều này không chỉ giới hạn trong việc chăm sóc nhà cửa, nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy rằng hiện trạng này cũng có trong mọi hoạt động của con người nơi thế gian này.
Du hí tam muội là một trạng thái tâm thức trong đó người ta làm một việc gì mà không hề cân nhắc đến cái giá trị tương đối của nó, y như một đứa trẻ chơi nghịch trong cát sẽ không muốn để một người nào khác đến thế chỗ nó. Đó chính là tâm thức của cô Okamoto khi cô đi vào chơi bóng trong rừng.
Du hí tam muội là một trạng thái trong đó tâm đã siêu vượt lên sự đối đãi của cả hai pháp hữu lậu và vô lậu. Đó là Pháp môn Giải thoát, một trạng thái tâm thức tự do tự tại, giải thoátkhỏi cả hai cái hữu hạn và vô hạn.
Nơi bản thân chúng ta đã có sẵn mạng Phật vĩnh cửu thường hằng. Mạng Phật ấy thể hiệntrong mọi sắc tướng, sinh sinh diệt diệt theo từng sát na, và tiếp nối nhau hiển lộ trong du hí tam muội. Chúng ta có thể khẳng định rằng có được trạng thái tâm như vậy chính là đã đạt được trạng thái giác ngộ trong Thiền.
Nơi bản thân chúng ta đã có sẵn mạng sống vĩnh cửu miên viễn. Mạng sống đó thể hiệntrong những sắc tướng và tương tục biến hiện theo từng sát na. Tuy nhiên, ánh chớp lập lòe của sự biến hiện này không phải là ánh chớp của một cái ngã riêng biệt kiên cố, mà là sự biến hiện rực rỡ của một thể nhập hòa điệu giữa cá thể và ngoại cảnh chung quanh.
Đây là điều mà vị tổ khai sáng của tông Tào Động ở Nhật, thiền sư Đạo Nguyên (Dogen Zenji) đã ngụ ý khi ngài bảo rằng sinh và tử chính là mạng sống Phật. Sinh và tử là nhịp đập của mạng sống Phật.
Ơ đâu có một ngàn con người, trong một ngàn lối sống, sẽ có một ngàn vị Phật hiển lộ. Phật hiển lộ trong đồi núi, trong thung lũng, cỏ cây, qua muôn vàn hiện tượng khác nhau. Cái tâm thể hiện nơi bất cứ mọi hình tướng nào trước mắt ta, nơi bất cứ phương hướngnào chung quanh ta là cái tâm đáng kính ngưỡng; đó chính là tâm Phật, đó chính là mạng Phật vậy.
Riêng đối với cá nhân tôi, chữ sinh và tử được hiểu như Đời Sống Lớn Rộng, đầy năng động và nhẩy múa thật linh hoạt. Trong suốt quyển sách này tôi đã nói chuyện với các bạn về đời sống lớn rộng, nhẩy múa thật linh hoạt này và về tiến trình tôi đã trải qua để có được cái nhìn như vậy về đời sống.
Như tôi đã nói trước đây, khi chấm dứt một bài giảng, tôi thường yêu cầu mọi người hãy quên hết những điều tôi vừa nói. Nhưng mặc dù vậy, tôi cũng tha thiết mong rằng những lời kể vụng về của tôi sẽ là một khích lệ, phần nào giúp cho bạn sống được đời sống của mình … sống với hết tâm ý trong từng giây từng phút, trong ý thức trọn vẹn trước mắt đời sốngbao la lớn rộng, đầy năng động, và nhẩy múa thật linh hoạt.
Vài nét về tác giả: Thiền sư Soko Morinaga sanh năm 1925. Sau khi tốt nghiệp trung học, ngài đã tu theo Thiền tông, được thọ giới với thiền sư Zuigan Goto vào năm 1948. Khoảng thời gian từ 1949 cho đến 1963, ngài tu trong thiền viện Đại Đức (Daitokuji) và được thiền sư Sesso Ota ấn chứng. Trong khi hoạt động tích cực với cộng đồng cư sĩ, đi thuyết giảng các nơi và viết bài, viết sách, ngài cũng làm viện trưởng cho viện đại học Hanazono, trường đại họcchuyên môn của tông Lâm Tế ở Kyoto. Ngài có một liên hệ lâu dài với Hội Phật Giáo ở Luân Đôn và đi du hành qua đó mỗi năm để tham dự khóa giảng mùa hè được bảo trợ bởi nhiều hệ phái Phật giáo khác nhau. Thiền sư Morinaga tịch vào năm 1995.
Dịch giả: Thuần Bạch
(http://huongngu.freehostia.com)