Đức Tăng Vương Chuon Nath ជួន ណាត (Preah Jotinana Sumedhadhipati)
Samdech Sangha Raja Jhotañano Chuon Nath (tiếng Khmer: ជួន ណាត [cuən naːt]; 11 tháng 3 năm 1883 - 25 tháng 9 năm 1969) là vị tổ phụ tối cao của phái Mahānikāya Cambodge. Trong số những thành tựu của ông là nỗ lực của ông trong việc bảo tồn ngôn ngữ Khmer trong các hình thức của từ điển Khmer. Việc bảo vệ danh tính và lịch sử Khmercủa ông dưới hình thức quốc ca, Nokor Reach và Savada Khmer cũng nằm trong số những đóng góp của ông cho đất nước này. Tro của ông được chôn tại Wat Ounalom ở Phnom Penh.
Đức Tăng Vương Chuon Nath không chỉ là lãnh đạo tối cao của Phật giáo Cambodge thời hoàng kim, mà Ngài còn là một nhà văn hóa kiệt xuất, một học giả uyên thâm về nhiều ngành học thuật khác nhau.
Đối với dân tộc Cambodge, ngài là người đã làm phục sinh nền văn hóa vốn chỉ còn le lói trên đống tro tàn của một nền văn minh Angkor cơ hồ đã chìm hẳn vào bóng đêm lịch sử. Đối với Phật giáo Cambodge, Ngài đã vun xén và khoát lên đó một vầng hào quang rực rõ với những công trình Phật học có giá trị quốc tế. Ngài là một trong bốn vị trưởng lão đã thiết định chương trình Kiết Tập Tam Tạng kỳ VI tại Miến Điện (1954 - 1956), bên cạnh ba đức Tăng vương Miến Điện, Tích Lan và Thái Lan.
Ngài sinh ngày 11 tháng 3 năm 1883 tại làng Komrieng, huyện Kong Pisey, tỉnh Kompong Spueh, Cambodge, con của cụ ông Chuon và cụ bà Yuok. Thế danh ngài là Chuon Nath, em trai của ngài là Chuon Nuth. Ngài học tiếng Khmer và Số học từ bé.
Tượng Samdech Chuon Nath tại Phnom Penh
|
Đến năm 14 tuổi (1897) thì thọ giới Sadi tại chùa Bodhibriks (còn gọi là chùa Poulivang), huyện Kondal Steung, tỉnh Kondal.
Năm 1904, Ngài trở về chùa cũ Bodhibriks để thọ Đại giới với Hòa thượng bổn sư là Ngài Đại lão Hòa thượng Buddhaghosa Ma Keit (Suvannapanno Mahathero). Hai thầy Yết ma tụng tuyên ngôn cho ngài là Thượng tọa Keh Morn (Missanakau) và Thượng tọa In Khem (Tikkhapanno).
Ngài được Hòa thượng Bổn sư ban cho pháp danh là Jotanano. Sau Khi thọ giới Tỳ khưu, ngài đã trở về chùa Unnalom để tiếp tục tu học.
Do năng khiếu bẩm sinh, từ lúc còn là một học tăng trẻ tuổi, ngài Chuon Nath đã am tường nhiều ngôn ngữ Châu á. Ngài có thể truy nguyên gốc tích Pali và Sanskrit không những trong tiếng Khmer, mà còn cả các thứ ngôn ngữ có liên quan, như: Tích Lan, Miến Điện, Mon, Thái, Lào (rất giỏi Tiếng Thái và Lào) và đặc biệt còn có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh, Pháp (và một ít tiếng Việt). Ngài Chuon Nath là một thiên tài về ngôn ngữ học.
Năm 1922, Ngài nhận tước hiệu Giáo thọ sư (Sanghasattha) và được người Pháp gửi sang Hà Nội học một năm về tiếng Sanskrit và chữ Khmer cổ (từ các bia ký Angkor) với giáo sư Louis Finnot tại French University.
Năm 1923, Ngài trở về Cambodge.
Từ lúc còn rất trẻ tuổi, Ngài Chuon Nath đã sớm có những ưu tư về tiền đồ Phật giáo và văn hóa dân tộc. Từ năm 1913, Ngài đã được Quốc Vương Cambodge thời là Vua Sisowat mời vào hoàng cung bàn thảo chương trình khai đạo và đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Ngài Chuon Nath đã đề đạt lên vua nhiều sáng kiến quan trọng.
Năm 1915, Ngài được bổ nhiệm làm Giảng sư Trường Cao đẳng Pāḷi, tức tiền thân của Đại học Phật giáo Campuchia sau này là Soramarit University (thành lập 1960).
Năm 1919, Ngài dược thỉnh tham gia Hội đồng biên soạn bộ từ điền Khmer đâu tiên của Cambodge có giá trị hàn lâm. Chính Ngài đã chia công trình ra thành nhiều phần để lần lượt hoàn chỉnh từng công đoạn. Bộ từ điển (gồm hai quyển lớn, trên 2.000 trang) sau khi hoàn tất vào thập niên 60 thế kỷ XX đã trở thành báu vật văn hóa dân tộc Khmer và cho đến nay vẫn được xem là bộ từ điển tiêu chuẩn của ngôn ngữ Khmer có giá trị quốc tế. Ngay khi hòa bình vãn hồi trên đất nước Cambodge sau đại nạn hủy diệt văn hóa của Pol Pot, Chính phủ Nhật Bản đã cho in lại bộ Đại Tạng Kinh tiếng Khmer và cả bộ từ điển trên.
Năm 1925, Ngài Chuon Nath là thành viên trong Hội đồng ấn hành Đại Tạng Kinh tiếng Khmer.
Năm 1926, Ngài được thỉnh vào chức danh Chánh chủ khảo các kỳ thi Phật học thường niên của Chư tăng toàn quốc trên hai ngôn ngữ Pháp và Khmer.
Năm 1927, Bộ từ điển tiếng Khmer hoàn tất được hai phần đầu và Ngài cho ấn hành ngay năm này. Từ đó cho đến lúc viên tịch, Ngài đã đảm nhiệm trọng trách cả 2 lĩnh vực Phật học và Văn hóa:
Năm 1927, Ngài là thành viên sáng lập Viện nghiên cứu Phật học Hoàng gia Cambodge (Royal Buddhist Institute).
Năm 1930, Ngài đảm nhiệm chức danh Phó hiệu trưởng Trường Cao đẳng Pāḷi, thành viên cao cấp của Hội đồng Phiên dịch Đại Tạng Kinh Khmer.
Năm 1932, Ngài đảm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Cổ Ngữ Khmer trên các di tích Angkor để bổ sung tiếng Khmer hiện đại.
Năm 1933, Ngài là Trưởng ban ấn hành của Bộ Giáo dục Vương quốc Cambodge.
Năm 1934, Ngài là thành viên Viện Ngôn ngữ học Hoàng gia.
Năm 1935, Ngài là Giáo sư tiếng Pāḷi, Sanskrit, Khmer, và Lào tại Preah Sisowath University ở Phnom Penth.
Năm 1942, Ngài là hiệu trưởng Trường Cao đẳng Pāḷi Buddhika Vidyalay Preah Soramrit.
Năm 1944, Ngài được bổ nhiệm Trụ trì chùa Unnalom.
Năm 1945, Ngài đăng quang ngôi vị Tăng Vương Vương Quốc Cambodge.
Năm 1947, Ngài là Quyền Thứ trưởng Bộ Giáo dục Cambodge.
Năm 1948, Ngài là chủ Tịch Hội đồng Kiểm duyệt Văn hóa Hoàng gia.
Năm 1954, Trưởng đoàn phái bộ Tăng già Cambodge trong Đại hội Kiết tập Kinh điển kỳ VI tại Miến Điện, Thành viên tối cao trong Hội đồng Tôn đức Chứng minh, một trong 4 vị Trưởng lão Cố vấn tối cao cho Đại hội Kiết tập.
Năm 1961, Ngài đáp lời thỉnh mời của Hội Văn Sĩ (Khmer Writers Associattion), đảm nhận mục giải đáp Ngôn ngữ trên đài phát thanh vào ngày thứ sáu hằng tuần.
1968, Ngài là Trưởng ban ấn hành Sử học.
1969, Ngài được thỉnh mời phác họa Quốc kỳ Cambodge. Ngài cũng đã thu thần thị tịch vào năm này. Vài tháng sau khi ngài viên tịch, đất nước Cambodge đi vào bóng đêm nội chiến và diệt chủng.
Được biết có khá nhiều vị Trưởng lão Hệ phái Nam tông Kinh là để tử do đức Tăng Vương trực tiếp truyền giới, trong đó có: Bậc khai sáng Hệ phái Nam tông Kinh là Hòa thượng Hộ Tông.
Nam Mô Phật Pháp Tăng
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
© www.BlogDaoPhat.com
* Mọi đóng góp bổ sung thông tin vui lòng liên hệ Blog Đạo Phật Ngày Nay - BuddhaSasana
Một vài hình ảnh về Ngài